truyện ngắn quế hương

TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG Quế Hương là bút danh của Nguyễn Thị Thương. Từ cô nữ sinh Đồng Khánh đến cô giáo dạy Việt văn trung học Thành Nội - Huế và nay là một nhà văn với hơn mười mấy năm cầm bút, văn chương như một nghiệp dĩ ngấm vào tâm hồn chị. Để rồi, lúc vừa buông viên phấn, ngọn bút của nhà TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG Lê Thị Minh Hiền Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Tóm tắt. Trong rất nhiều sáng tác của mình, đặc biệt là truyện ngắn, Quế Hương luôn dành phần lớn viết về tình yêu và những hoài niệm về xứ Huế - nơi lưu giữ Tí Bụi Quế Hương Truyện Ngắn. READ 5105. Vua Lũ Đồ Chơi Quế Hương Truyện Ngắn. READ 3982. Please make a donation to help us pay for hosting cost and keep this website FREE. DONATE. DONATE A BOOK. If you have books published before 1975, please help us preserve South Vietnamese Literature by scanning or donating them to us. Cuốn sách là tuyển tập truyện ngắn đã đăng trên tạp chí Sông Hương 30 năm qua, gồm 78 truyện ngắn của 78 tác giả như: Thái Ngọc San, Cao Linh Quân, Tô Nhuận Vỹ, Hữu Phương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hoàng Tố Mai, Đoàn Lê, Tạ Duy Anh, Cung Tích Biền, Dương Thành Vũ, Trần Duy Phiên, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Chương 143: Tranh hương lại còn diễm Làm nô tỳ chỉ là Ngô Tam Quế nói tới khách khí, hắn chung quy phải bận tâm mặt mũi, nếu nói là trực tiếp đem con gái hiến cho hoàng đế phong phú hậu cung, truyền đi e sợ vì thiên hạ người chế nhạo. Ou Rencontre T On Son Conjoint. Đừng Đùa Với Ma Y Ban - Quế Hương Tập Truyện Kinh Dị CHAPTERS 16 VIEWS 26252 Những hồn ma bóng quỷ được dựng lên trong các câu chuyện của tuyển tập truyện Đừng Đùa Với Ma khá nhẹ nhàng và gần gũi với đời sống, hầu như không mang đến cho người đọc cảm giác rùng rợn. Ẩn sau những câu chuyện có màu sắc huyền hoặc kỳ ảo là khát vọng của con người về cuộc sống, về tình yêu, về cái đẹp và tính thiện. Và với cùng những khát vọng, mục đích tồn tại, những con người thuộc về hai cõi âm – dương đôi khi không còn cách biệt. Dõi theo các câu chuyện, thị giác, khứu giác, thính giác, xúc giác của độc giả sẽ được kích thích với ấn tượng chân thực, tưởng như chúng ta cũng sẽ bất ngờ trông thấy những điều kỳ lạ. Không cần phù phiếm, một truyện ngắn đọc xong làm người ta day dứt, ngẫm suy, tin yêu… là truyện ngắn thành công. Những mẩu chuyện nhỏ nhưng sâu sắc của Quế Hương đã làm được điều đó với không ít độc giả. Từ truyện ngắn đầu tay Đôi chân biết khóc 1990 đến Đoá hoa không gai và con cừu không rọ mõm 2010, với một số lượng văn phẩm không hẳn là nhiều, tên tuổi Quế Hương đã được khẳng định, không chỉ trong nước mà còn vang ra ngoài lãnh thổ Việt Nam Truyện ngắn của Quế Hương đa dạng. Có những truyện như vừa mới được bóc tách ra từ mảng hiện thực cuộc sống tươi ròng, đầy đặn những vấn đề thời sự nhức nhối lối sống của thanh niên trong xã hội đương đại Một cuộc đua; căn bệnh thế kỉ Tiên ngồi khóc; tệ nạn xã hội; trẻ em đường phố Tí bụi… Có những truyện như những huyền thoại cổ xưa, lấp lánh vẻ đẹp nhân bản khi nhà văn chạm sâu đến những tầng vô thức, bản năng người Bức tranh thiếu nữ áo lục, Khúc chiều tà, Tịnh Tâm viên. Có những truyện như cổ tích thời nay – những bài học đời thường nhiều trăn trở Cội mai lưu lạc, Câu hát gọi tìm. Quế Hương cũng có một mảng truyện dành cho thiếu nhi. Nhân hậu, dễ xúc động trước những mảnh đời lấm láp, Quế Hương dành cho trẻ em những trang viết thấm đượm tình người với nét bút hồn nhiên, lấp lánh tin yêu Đám cưới cỏ, Vua lũ đồ chơi, Chiếc vé vào cổng Thiên – Đường – Xanh. Dẫu viết về vấn đề gì, điểm nổi bật của truyện ngắn Quế Hương là luôn thấp thoáng bóng dáng một cái tôi-nhà-văn đầy trắc ẩn. Trên diện mạo chung của truyện ngắn nữ, tên tuổi Quế Hương hiện hữu với một thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới của những mảnh đời không hoàn hảo Với nữ giới, viết văn là sự giãi bày, một xác tín bản ngã; viết như một nhu cầu hóa thân/đóng vai qua hệ thống nhân vật – đặc biệt là nhân vật nữ. Quế Hương không hẳn như vậy. Đọc truyện ngắn Quế Hương, không có cảm giác nhà văn “tự mổ xẻ mình” hay như tác giả tâm sự “tôi quyết gạt tôi qua một bên” nhưng thấp thoáng đằng sau nhân vật là chân dung của nhà văn. Điều thú vị ở tác giả nữ này là trong phần lớn những chuyện kể từ ngôi thứ nhất, điểm nhìn được đặt ở nhân vật khác giới. Trong truyện ngắn Quế Hương có một cái-tôi-đàn-ông, ngỡ ngoài cuộc nhưng hoá ra lại là những mảnh phân thân của tâm hồn nhà văn. Tôi bộc lộ nỗi buồn mênh mang trước sự xuống cấp của những di sản văn hoá dân tộc văn hoá Chăm, phố cổ Hội An, lăng tẩm Huế và những cảnh rêu phong hoang phế đổ nát Apsara hoang dại. Tôi ngậm ngùi, xót xa trước sức huỷ hoại của thời gian; cái tôi gắn bó chặt chẽ với hồn quê, cái tôi lịch duyệt, tinh tế; cái tôi run rẩy trước cái đẹp vĩnh cửu Cội mai vĩnh cửu. Cái tôi với niềm xác tín về tình yêu đích thực- “Ngày mai khuôn viên Tịnh Tâm sẽ thuộc về người khác, linh hồn họ trôi dạt về đâu? Nhưng tôi tin, dù lên thiên đàng hay xuống địa ngục, lão Cây vẫn đi theo người đàn bà tóc trắng, vẫn đủ ma lực gọi cỏ hoa về Tịnh Tâm viên. Con người trong truyện ngắn Quế Hương được soi chiếu từ nhiều chiều kích, với nhiều dạng thức; trong đó kiểu con người bất toàn trở thành tâm điểm sáng tạo của nhà văn. Nhân vật của Quế Hương là những người phụ nữ bất hạnh, những người đàn ông chấn thương và những đứa trẻ tội tình vì trót mang vác phận người. Ngoài cõi người trần trụi trong một cõi tục bụi bặm, thô nhám, ngòi bút nhà văn thật tinh tế khi khắc hoạ một kiểu nhân vật lạ lẫm, bí ẩn, mang trong mình những nỗi ám ảnh không dễ giãi bày. Nhân vật của Quế Hương thường có những vùng ẩn mật những tổn thương tinh thần thời thơ ấu bám riết phận đời, sự thiếu thốn về tình cảm, những ẩn ức tâm lí… Chạm đến cõi vô thức, phát lộ được chốn bí ẩn này, nhà văn đã đề cập sâu sắc tính đa bản thể của con người. Quế Hương thường khắc hoạ motif nhân vật bất thường, những người điên sống trong ảo giác, mộng mị, ám thị. Nhưng ngẫm ra, họ là những người-điên-tỉnh-táo trong cuộc đời nghiệt ngã, nhốn nháo. Điên là những phút giây con người tìm về quá khứ với những ám ảnh, mặc cảm, những vết thương khó lòng lành miệng; kể cả những cơn điên sáng tạo. Bằng sự mài nhọn giác quan, cây-bút-nữ Quế Hương đã khai mở được đời sống tâm linh. Nhiều nhân vật của Quế Hương như đang bước ra từ một thế giới khác, một thế giới lưng chừng giữa cõi thực và cõi nào hoang sơ. Đó là lão Cây có năng lực gọi cỏ hoa về và người đàn bà tóc trắng khóc-cười-yêu-hận với những ám ảnh vô thức Tịnh Tâm viên; là lão Tầm Xuân suốt phần đời còn lại chìm trong cõi vắng – “Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Đêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội Lim, lúng liếng, đắm say, chan tình lai láng.” Câu hát tìm nhau; là gã Đớp, ôm giữ một mối tình trong vô thức, người thanh niên sống trong cõi hỗn mang, cứ đêm đêm lại lang thang đi uống vầng trăng Khúc chiều tà. Nghệ thuật như là kết quả của sự thăng hoa những ám ảnh vô thức. Nhân vật máu thịt của Quế Hương thường là nghệ sĩ hoạ sĩ, nhà văn, vũ nữ, nghệ nhân… Sáng tạo với họ là hoạt động vô thức. Người họa sĩ râu tóc man dại với nụ cười trắng lóa trong nắng, nụ cười an nhiên của đá với “những trang nhật ký bằng tranh xé ra từ cõi lòng sâu nặng với văn hóa Champa dựng rải rác quanh đó… Linga đường bệ trơ trọi, mảnh tháp thương tích lơ phơ ngọn cỏ gió đùa, đôi mắt vời vợi, tít tắp, lung linh ánh lửa u uẩn huyền bí của hậu bối nghệ sĩ Chăm xưa” Apsara hoang dại. Lão Vật-phù-thuỷ với hai bức tranh ra đời trong tột cùng đam mê và tột cùng thù hận- “Bức thứ nhất vẽ một người đàn bà kiều mị nhưng thật gớm ghiếc vì tóc bà ta là những chùm rắn rết. Bức thứ hai vẽ một người đàn ông vục mặt trên bầu vú để trần của người đàn bà, gương mặt lai láng hạnh phúc” Một. Những trang viết về hội hoạ của Quế Hương là những bức tranh bằng ngôn từ nghệ thuật được viết bằng một trái tim phụ nữ mẫn cảm. Bằng những ham muốn vô thức, người hoạ sĩ già xuất thần vẽ những bức tranh “không cùng-kiểu-với-mọi-người”; những bức tranh “nóng hôi hổi như những viên ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất… Chúng nằm la liệt trên sàn nhà…Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh kiệt ứ trào khỏi màu sắc và hữu hạn” Bức tranh thiếu nữ áo lục. Dưới ngòi bút tài hoa của Quế Hương, người hoạ sĩ già và hình ảnh thiếu nữ áo lục chợt ẩn chợt hiện, chợt già chợt trẻ như một ám ảnh sáng tạo. Và, sau đêm ân ái với cô bé áo lục chợt có chợt không, trong tội-lỗi-vô-thức, trong cơn mê sảng sáng tạo, hoạ sĩ đã để lại bức tranh đẹp nhất của một đời đam mê nghệ thuật và đi vào cõi chết. Các nhân vật nghệ sĩ của Quế Hương thường thoát xác trong một “phút linh” như thế. “Trên nền tháp, một vũ nữ đang múa… Du khách đứng quanh như bị hớp hồn theo pho tượng Chăm biết cử động… Váy áo dát nắng vàng, nét mặt đắm chìm trong hoan lạc tự tại, cô không còn thuộc về thế giới phù hoa hư ảo của trần thế…” Apsara hoang dại. Bức tranh thiếu nữ và hoa phượng thành hình nét trong những phút giây bất chợt trong đời- “Hoa phượng rực rỡ, tuổi thanh xuân rực rỡ mà sao tranh vẫn buồn khôn tả” Nỗi buồn rực rỡ. Lẽ tử sinh và khát vọng thoát xác- tái sinh Trước thường biến lẽ đời, văn học ngày càng quan tâm hơn đến những vấn đề vĩnh cửu, trong đó có sự sống và cái chết. Tác phẩm Quế Hương tồn tại song song hai triết lí vĩnh hằng sống-chết. Nhân vật của chị luôn mặc cảm về cái sống của mình nên luôn đi tìm/đón chờ cái chết như một lẽ sinh tử thường tình Một, Đôi chân biết khóc, Đáo bỉ ngạn. Nhiều truyện ngắn của Quế Hương là cuộc đối thoại giữa hai phạm trù ngỡ như đối lập nhưng luôn tồn tại trong một con người. Ở đó CON NGƯỜI đối thoại với THẦN CHẾT – “Chết là vậy sao? Như gió bão. Đốn ngã một cuộc đời bất cứ lúc nào”. Trong Đáo bỉ ngạn vị quan tham cận kề cái chết mới bừng ngộ về lẽ vô thường. Tới bờ bên kia của cuộc đời, con người mới thấu thị những vấn đề tưởng quá chừng đơn giản. Cái nhân hậu, đằm thắm nữ của Quế Hương là dẫu chìm đắm đến tận cùng bi thảm nhân vật của chị vẫn được cứu rỗi; hoặc dẫu bằng cái chết thì cũng là sự cứu chuộc, về cõi hằng cửu, thoát xác để tái sinh– “Nàng nằm đó, bình an thanh thản gác lại mọi nỗi trần ai – Còn tôi, quằn quại, đau đớn. Nàng được chết-trong-cõi-chết. Còn tôi, chết-trong-cõi-sống” Một; “Nhưng mẹ không một mình. Chú Di phủ phục bên mồ dang cả người che mưa cho nấm đất mới. Mưa xối lên hình hài chú nhưng dưới trái tim chú mẹ vẫn khô ráo” Trần gian có mưa. “Cái chết xâm chiếm ông từng ngày, nhưng cũng theo từng ngày, một mầm sống khác lại quẫy cựa, trồi lên. Dường như có một thằng bé chui ra từ hình hài mục ruỗng của ông, đái lên trái tim khô của ông làm nó ướt đẫm” Đáo bỉ ngạn. Mang chứa trong mình những bí ẩn riêng, nhân vật của Quế Hương thường xuyên sống trong cõi lặng. Nhiều nhân vật bị tước bỏ vai trò của chủ thể phát ngôn, câm lặng vì những sang chấn tinh thần tuổi ấu thơ. Con câm với đôi mắt hoang dại mênh mang buồn. Khát vọng hoá thân và bản năng sống là cú hích đột ngột để âm thanh bật lên thành tiếng nói Apsara hoang dại. Có lúc câm như là một cách thức phản kháng với cái xấu cái ác, hoặc bộc lộ đến tận cùng sự cô đơn. Có khi nhân vật từ chối tiếng nói vì sợ những lời giả dối; hoặc vì ngôn ngữ nói thành lời không đủ để phát lộ những đoạn khúc bí ẩn của tâm “Khi ngôn từ không đủ diễn tả, lão cũng cắm hoa. Những bình hoa bừng sáng vẻ đẹp tâm hồn lão, tâm hồn thô mộc chưa tách rời mẹ đất để bay lên không với đôi cánh giả phù du” Tịnh Tâm viên; “Lão vẽ bằng que, bằng than, bút chì hoặc mực tàu nhưng tôi lờ mờ cảm nhận ngôn ngữ ấy của lão thật khốc liệt. Đó là thân cây trơ trụi nổi trên nền trời xám xịt. Đó là con thuyền nhỏ chết đuối giữa sông xanh. Đó là những hình người, bao giờ cũng nửa người nửa thú, nửa mặt này, nửa mặt kia trông thật gớm ghiếc” Một. Triệt tiêu vai trò phát ngôn của nhân vật, dạng ngôn ngữ chủ yếu trong truyện ngắn Quế Hương là lời độc thoại nội tâm. Ở một số truyện của nhà văn, yếu tố thúc đẩy câu chuyện phát triển là lời vô thức- mạch trữ tình trội lên ở bình diện thứ nhất, mạch tự sự chìm khuất sau những ngổn ngang hoài niệm. Người đi lạc là những trạng thái phân tâm của hai nửa con người trong nhân vật Phước điên- một nửa đi lạc ở hiện tại từ khách sạn Morin đến bệnh viện; một nửa lạc chìm trong hồi ức thời nữ sinh Đồng Khánh,. Mạch truyện được triển khai từ hành vi lạc/điên, điên/tỉnh. Hiện tại-quá khứ, thực-hư đan lồng trong những khoảnh khắc điên-hồi-ức. Thời gian trần thuật bị đảo lộn, đồng hiện thời gian được tổ chức một cách có nghệ thuật. Lời vô thức xuyên suốt chiều dài tác phẩm, với những khoảnh khắc đồng hiện để người điên tự phân tâm “Tôi đi về phía bệnh viện. Con đường có hai hàng cây long não đẹp lạ lùng. Thư bảo chúng hôn nhau. Tôi men theo rào bệnh viện. Hai tay buông thõng. Đầu gục xuống. Tôi bắt đầu khóc ư ử. Nhiều người đi ngược nhìn tôi.” “Tôi đi về phía chỗ Khoa nằm. Bệnh nhân đang chờ khám rất đông, Chỗ Khoa gối đầu lên, một đứa bé đang đứng. Tôi thấy rõ vệt máu của Khoa dưới chân em. Tôi oà khóc” Người đi lạc. Thế giới của cái đẹp, sự tương giao, của thăng hoa vô thức Một trong những yếu tố làm nên một vùng thẩm mỹ riêng của truyện ngắn Quế Hương là thiên nhiên tâm linh. Không gian quen thuộc trong truyện ngắn Quế Hương là những khu vườn ngờm ngợp trăng, cỏ, lá, hoa; là những di tích văn hoá lao xao hồn linh huyền hoặc ngàn xưa. Nhân vật của Quế Hương tìm thấy ở thiên nhiên một sự giao hoà kì diệu, thiên nhiên có hồn, gọi hồn. Nhà văn thật tinh tế khi diễn tả độ giao tần số rung động giữa thiên nhiên và hồn người. Con người bất toàn được thiên nhiên làm cho hoàn hảo; những cái chết được thiên nhiên làm cho tái sinh. Trong thế giới nguyên sơ đó- nơi mà mọi pha tạp của đời sống không chạm tới, con người lẩn thẩn chuyện trò với cỏ cây hoa lá, nhập hồn vào thế giới trong lành; hiểu ngôn ngữ của cỏ hoa đồng nội. Người đàn bà tóc trắng trong cơn cuồng nộ kí ức, và nước, và mưa, hoa súng và thuyền giấy Tịnh Tâm viên. Trong Phố Hoài, nhân vật hồn nhiên đối thoại với rêu- “tựa cửa chơi trò đố rêu nói gì trên bức tường trước mặt”. Để rồi năm tháng trôi qua, giữa bao nghiệt ngã thời gian “thằng Dậu vắt trí tưởng tượng giải mã ngôn ngữ rêu bí ẩn ấy như chơi cút bắt với tâm hồn chị”. Những vùng thiên nhiên trong truyện Quế Hương hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc về lẽ đời, lẽ người? Sư trụ trì cũng là một nghệ nhân bon-sai, quan niệm cái Đẹp chính là Đạo. “Trồng hoa cũng là cách hằng hóa tâm đạo, truyền tiếng nói thầm lặng cửa thiền” Ẩn lan. Giữa tĩnh mịch thâm u vùng lăng tẩm Huế, người hoạ sĩ già “ngồi tựa vào thân cây, trang nghiêm, tịch mặc như kẻ thiền toạ, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm. Nỗi đời tan biến…”. Và, khoảnh khắc bất chợt làm nên sáng tạo đích thực của người hoạ sĩ chính là khoảnh khắc con người đắm mình vào thiên nhiên “Thế là ông vẽ cỏ-đám-cưới...Hai mươi năm cầm cọ hoạ sĩ chưa bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn, giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Màu sắc cứ tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào ào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui trên nền cỏ rạo rực...” Bức tranh thiếu nữ áo lục. Quế Hương cũng viết nhiều về phố thị, bụi và vô cảm. Không gian phố thị tù túng, vô hồn, nơi “cây kiểng nén mình trong chật hẹp. Cá trong bể kiếng. Chim trong lồng”; nơi “chỉ có những ngọn đèn trước hiên hoặc trên ban-công thức, tỏa ra thứ ánh sáng đường bệ lạnh lùng như những tên lính canh”. Ở đó, con người chai lì mọi cảm xúc, nơi tồn tại những con người thờ ơ trước cái Đẹp, trước tình người. Thoát ra khỏi không gian đó, người mới thật là Người, chim mới thật sự là chim- “chuỗi âm thanh ríu ran như tiếng hót. Phải chăng khi chạm trời xanh, nó sực nhớ mình là chim!” Con nhồng Bù Đốp; ngay cả búp bê “bằng nhựa đúc đơn giản, mọi bộ phận, áo váy, tóc mũ gắn liền một khối” già đời trong tủ kính cũng được sống trong hạnh-phúc-người Cỏ đám cưới. Ở những truyện ngắn viết về nhốn nháo phố thị, văn phong Quế Hương tỉnh táo, lạnh lùng, nhiều truyện ngắn thiên về đối thoại, triết lí; nhưng có lúc ngòi bút Quế Hương bất chợt biến hoá, mềm mại, ấm áp khi viết về đất đai, cây cỏ. Thiên nhiên trong truyện Quế Hương còn là một chốn vĩnh hằng, nơi vùi chôn và bật mầm những giấc mơ xanh. Ở đó, trong miền nhớ còn tươi rói của nhân vật, có một khoảnh khắc ngưng lặng, bất biến, một khung rêu mãi bám riết trong kí ức con người - “Những sắc độ xanh chồng chồng lớp lớp, gối lên nhau như những mảng thời gian được lưu trữ”; “Rêu chảy từ trên mái xuống tường, non nỏn đến dại lòng, thăm thẳm đến tê tái...”. Năm tháng phủ thêm bụi thời gian, bức tường rêu ấy đang hiện ra trước mắt ông, còn “chị hiện ra trên rêu, ngửa cổ cười” Phố Hoài. Trong truyện ngắn Quế Hương có một loại hình không gian cổ tích, không gian không cản trở, để đôi cặp luôn cận kề, bên nhau, tìm nhau, đau đáu về nhau, bất chấp tất cả, kể cả cái chết. Mỗi nhân vật là một miền hoài niệm; những hồi ức bám riết, đày đoạ. Sống trong miền nhớ ấy, con người mê man hạnh phúc để rồi khi bị kéo về cõi thực họ chông chênh. Quế Hương đã tổ chức không/thời gian đêm/trăng một cách linh hoạt để làm nổi rõ những phức cảm tâm hồn. Trong Khúc chiều tà, với gã Đớp, ban ngày là điên, là đói, là rách rưới, nhưng trong không- thời gian tĩnh lặng của đêm, nỗi đau trỗi dậy ám ảnh vô thức. Ngày tượng trưng cho đời sống ý thức, đêm tượng trưng cho đời sống bản năng vô thức. Đêm là dung môi để dòng hoài niệm, ám ảnh sống lại. Nhân vật thường trăn trở, dằn vặt trong đêm. Trong đêm, con người hiện ra toàn vẹn, là mình, là tôi. Đêm tối đồng loã với vô thức và bản năng? Đêm là khoảnh khắc người thấu rõ lòng mình, nhận rõ độ xào xạc bên trong? Không thể dẫn chứng ra hết những đoạn, những trang viết đẹp về sự giao cảm giữa thiên nhiên và con người trong truyện ngắn của Quế Hương. Có hay không một thế giới diệu kì và hoang sơ đến thế? Đấy không phải là mối bận tâm của người đọc khi tiếp cận với cách viết “nửa huyền thoại” của Quế Hương, bởi văn học vẫn tồn tại một thế giới riêng. Vẫn là hình ảnh rất thực nhưng không gian đã mở ra đến cõi vô cùng; không còn ý nghĩa trần trụi ở bề mặt chữ câu, chỉ còn lung linh một thế giới của cái đẹp, của sự tương giao, của thăng hoa vô thức. Quế Hương đã chọn một lối tự sự về tâm hồn thật tự nhiên, chất tự nhiên đã được đúc kết từ một ngòi bút đã đạt đến độ vừa già dặn vừa tinh khôi. Thế giới liên văn bản Tác phẩm của Quế Hương hàm chứa những mạch ngầm văn bản. Truyện ngắn Quế Hương không dài. Những truyện dài nhất cũng độ 5,7 trang. Tính chất liên văn bản mở rộng độ hàm súc của một thể loại vốn ngắn về câu chữ. Trong nhiều truyện ngắn của Quế Hương, các diễn ngôn văn hoá, các văn bản văn học, diễn ngôn hội hoạ, lịch sử, âm nhạc… đan dệt vào nhau. Nhà văn không giễu nhại dẫu để thăng hoa hay hạ bệ mà liên văn bản trong truyện Quế Hương nhằm mở rộng thêm biên độ tâm hồn. Hoàng tử bé - tinh cầu nhỏ - con cừu không rọ mõm - đoá hoa không gai 1 và một thế giới chỉ có thể cảm nhận bằng tim, chứ mắt thường không nhìn thấy Đoá hoa không gai và con cừu không rọ mõm. Những vì sao Alphonse Daudet và đám cưới sao tạo nên sự cộng hưởng, cái đẹp thuần khiết của đất trời nhân bội Ẩn lan. Âm nhạc và thế giới thẳm sâu của tâm hồn; câu ca quan họ lơi lơi yếm, sóng sánh tình và nửa câu quan họ chơi vơi gọi tìm Câu hát tìm nhau. Cô đơn quá giữa cõi người đông đảo, nhốn nháo, ga xép là khoảnh khắc bất chợt gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Con tàu đã lao đi, cái bóng liêu xiêu mảnh mai của chị đã nhạt nhoà nhưng trong anh- người đàn ông xa lạ tình cờ gặp người đàn bà xa lạ ở một ga xép buồn, hiu quạnh, vẫn ứ đầy cảm giác về hạnh phúc vĩnh cửu, nó níu giữ anh lặng lẽ nơi này Ga xép. Truyện ngắn Quế Hương có âm hưởng thơ Bùi Giáng- nhà thơ của cõi uyên nguyên thuần khiết, nhà-thơ-điên sớm rũ bỏ bụi bặm cuộc đời, cởi bỏ những mặt nạ người phố thị trở về Nguồn 2. Trong thế giới của những văn bản chồng chéo đó, quan niệm về cái đẹp của nhà văn thật độc đáo- “Mở hai hàng cỏ tháng ba/ Lễ là đi tiểu, hội là vén xiêm”- cái đẹp phồn thực, nguyên sơ, trinh bạch, cái đẹp và sự sống, ám ảnh trong cõi hỗn mang vô thức của người-điên-mộng du, để quá nửa cuộc đời gã Đớp lang thang đi uống vầng trăng Khúc chiều tà. Từ góc nhìn liên văn bản, có thể thấy tín ngưỡng phồn thực thấp thoáng trong những trang văn khi Quế Hương ca ngợi vẻ đẹp nguyên sơ của người phụ nữ. Ở nhiều truyện ngắn, người đọc ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khiết trong ngần khi con người trở lại thuở hoang sơ, khi vũ trụ ở dạng thái uyên nguyên. Motif người-điên-tài-tử xuất hiện với tần số cao. Hình ảnh bà ngoại điên “đẹp tuyệt trần đứng cởi quần áo hiện ra trong nắng. Động tác nào của bà cũng tự nhiên duyên dáng” Cái nhìn vĩnh cửu; “Hàng dâm bụt đầy hoa như lồng đèn ngày cưới nàng… Một bầy con nít cả trai lẫn gái. Chúng cởi quần thi đái. Nàng cũng đái. Hồn nhiên, trắng nõn, sáng rực. Chỉ có cõi hoang sơ mới có vẻ đẹp ấy. Khi nàng ngước lên… Trời ơi nàng chạy… nàng chạy”. Có những trường hợp, liên văn bản nhằm đa bội hóa hiện thực, trong hiện thực đó con người đóng nhiều vai/tự nhân bội với những dạng thức khác nhau. Tấn thảm kịch dưới nước là nỗi ám ảnh để gã Đớp vừa sống trong trăng vừa bị “dày vò bởi một cơn đói triền miên”; để rồi ra khỏi cơn điên vô thức đó gã lại “ngồi bệt trên cỏ thổi sáo – khúc Sérénat dìu dặt trong chiều” Khúc chiều tà. Trong Tịnh Tâm viên, người đàn bà điên tóc trắng trải qua bao nhiêu vùng ám ảnh thì lão Cây cũng hoá thân thành bấy nhiêu vai. Câu chuyện tâm hồn được kể, tả bằng sự đan xen giữa thực và ảo. Độ ngưng của thời gian, độ nhoè của không gian làm cho cuộc sống thường nhật của con người nhuốm màu huyền thoại- người điên, người đẹp, quỷ dữ, bắt cóc, thiêng liêng và thế tục... Những yếu tố thường nhật của cuộc sống con người được mờ hoá, những yếu tố linh diệu của đời sống tâm linh được tô đậm nhưng bằng một nghệ thuật kể chuyện hết sức tự nhiên, Quế Hương đã làm bừng lên một mảng đời ngỡ như thật đến từng chi tiết. Những cổ mẫu archétipe Đất-Nước và những biến thể như biển, dòng sông, hồ, mưa… xuất hiện đậm đặc với nhiều ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của Quế Hương. “Nước là yếu tố gây ra những tưởng tượng sâu xa nhất trong con người về sự sống và sự chết. Nước huỷ diệt, nước tẩy rửa và nước làm tái sinh, trong trẻo, tinh khiết” 3; “Biển là hình tượng vừa của sự sống, vừa của sự chết” [4]. Nước là sự cứu rỗi. Nước thanh lọc, tẩy rửa tội lỗi, còn lại nước-vĩnh-cửu. Đất là biểu tượng cho sự phồn thực, sinh sôi nảy nở. Đất dồn chứa và cung cấp nguồn năng lượng dồi dào. Đất sinh nở và tiêu diệt. Trong Đất, trong Nước con người sống đúng bản năng, sống lại thuở ban sơ người. Trong Tịnh Tâm viên, hình ảnh những xác người vùi trong lòng biển là nỗi ám ảnh điên loạn; nhưng “với người điên mưa trở thành một tấu khúc kỳ diệu của đất trời. Từng giọt, từng giọt... gõ xuống cõi hỗn mang của người đàn bà, thức dậy một thời xa vắng, rửa sạch bụi bặm, thương đau”; “Như thuở hồng hoang. Đôi người chân trần, thân trần che chiếc lá sen đuổi nhau trong mưa”; “Say mưa. Cậu không thấy họ tắm truồng rồi ngửa cổ nhấm mưa như nhấm rượu đó à? Đêm trăng họ lại say trăng. Rồi say hoa quỳnh, hoa súng, cả thứ hoa tầm thường như hoa thầu đâu cũng trồng quanh vườn. Mùa hoa, tím ngát trời, thơm ngát xóm” Tre có hoa. Đất – Trời – Nước – Tình yêu. Quả là một cuộc hôn phối đậm chất huyền thoại- cuộc hôn phối giữa cõi người và cõi tự nhiên. Bằng cái nhìn vĩnh cửu, Truyện ngắn Quế Hương thường có kết thúc đẹp dẫu điểm dừng truyện ngắn của chị thường là cái chết. Người phụ nữ hát câu hát năm xưa không còn, lão Tầm Xuân vẫn lẽo đẽo đi tìm và nửa câu quan họ cứ chơi vơi Câu hát tìm nhau. Nỗi buồn vẫn cứ rực lên dẫu đời dâu bể lắm Nỗi buồn rực rỡ. Con Tội- “Con Tội là con xi-đa. Xi-đa là xa đi, xáp gần tao đánh chết. Trước sau chi hắn cũng chết. Đừng chơi với hắn lây xiđa chừ”- chết một cách tội tình nhưng những đứa trẻ vẫn múc trăng mà dội lên nhau, vẫn ném hoa nắng vào nhau, vẫn bước ra từ cõi lòng người ở lại Tiên ngồi khóc. Chim sơn ca bằng thủy tinh cất tiếng hót lảnh lót chạm thấu trời xanh, chạm tới giấc mơ của những chú bé Vua lũ đồ chơi. Từ cái gốc nhẵn thín câm lặng kia lại trồi lên một mầm sống mới, một nhánh mai non tơ mảnh khảnh, rạo rực vươn lên Cội mai vĩnh cửu. Họ cứ đi, người nọ theo người kia nhưng vẫn cứ đi dẫu có đi khỏi cõi - người - ta! Tịnh Tâm viên. Đoá hoa mảnh khảnh không gai làm con cừu độc ác bật khóc và “đất ẩm ướt. Mầm gọi mầm. Chồi gọi cây…”; “hết thảy các ngôi sao đều nở hoa” Đoá hoa không gai và con cừu không rọ mõm. Dẫu viết từ những xúc cảm mà cuộc sống đem lại, nhưng qua những truyện ngắn của Quế Hương, thấy “thế tục thẳm sâu hơn, cõi người lung linh bí ẩn hơn” lời tâm sự của chính tác giả. Hoặc như triết lí nhà văn thường gửi vào nhân vật người kể chuyện “Đời rộng mênh mông bởi tôi đã nhìn ngắm nó dưới góc độ vĩnh cửu”. Chú thích 1 Saint – Exupéry Bùi Giáng dịch, Hoàng tử Bé, Nxb Văn nghệ, 2006. 2 Thơ Bùi Giáng đậm tín ngưỡng phồn thực- “Đầu khe nguyệt bạch trần truồng/ Hồng nhan em nhớ về truông mặt quần” Lá hoa cồn; “Mỗi về thôn ổ ở truồng tắm khe/ Thương cô gánh củi nặng nề/ Rủ cô cùng tắm nước khe với mình” Ngắm trăng; “Mở hai hàng cỏ tháng ba … Mở hai hàng cỏ ngó xem/ Giòng thiên thu rộng là em bây giờ” Mở hai hàng cỏ. Trong truyện ngắn Quế Hương có chút ít Bùi Giáng, trong Bùi Giáng có Nguyễn Du. “Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Cưỡng bức thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình”. Nguồn Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng Sổ đoạn trường – Tức Đi vào cõi thơ cuốn II, Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn – Việt Nam. Bản điện tử do talawas thực hiện. 3, 4 Jean Chevalier – Alain Gheerbrant 2002, Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr 80. Lê Thị Hường Phóng toMinh họa Nguyễn Ngọc Thuần - TTCNTruyện ngắn Một cuộc đua của nhà giáo Quế Hương đã đoạt giải nhất cuộc thi “Viết truyện ngắn cho thanh niên học sinh, sinh viên” do Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp với Hội Nhà văn VN tổ chức. TTO xin giới thiệu truyện ngắn này Thấy tôi tái xanh tái xám, mồ hôi mồ kê bước vào nằm chuồi ra giường, con Thuý ngừng đọc báo - Mất dạy hả ? - Ừ. Thằng quỷ bảo hôm nay em trúng gió, cô cạo gió giùm em. Rồi hắn cởi áo... Tao dằn lòng lắm mới không cho nó cái tát. Đạp xe đi về gần 15 cây số tốn hao bao ca lo mà chẳng được gì. Chỗ gặp học trò trời sợ. Chỗ thì phụ huynh cứ giả vờ quên ngày trả tiền, chỉ tặng đồ quá đát... - Có cái này dành cho mi đây ! Coi gặm được không ? - Con Thuý chìa tờ báo. Tôi dán mắt vào chỗ hắn chỉ “Cần một giúp việc nữ dưới 25, lí lịch rõ ràng, ngoại hình khá, dễ mến, trình độ phổ thông trung học, có khả năng chăm sóc người bệnh nằm một chỗ. giờ. Thử việc 3 buổi...”. - Dạy kèm không ra gì, tiếp thị bia không xong thì giúp việc nhà thời công nghiệp vậy. Tính ra tháng bằng 4 chỗ dạy kèm ! ăn học thoải mái. - Tiền nào mệt nấy ! - Đồng tiền lương thiện bao giờ cũng nhọc nhằn. Lấy xe máy tao đi ! - Đi giờ ? - Chụp giật liền. Lương cao khối đứa nhào vô. - Con Thuý giục. - Giúp việc nhà mà làm như tranh suất học bổng đi nước ngoài ! Lại còn ngoại hình khá ! Tôi càu nhàu nhưng vẫn nghe lời con Thuý, đứng dậy. Hắn đáng nể. Tiếp thị bia để ăn học mà tâm hồn, thể xác 2 năm rồi còn nguyên xi. Hắn tránh né những thói sàm sỡ bằng thứ dịu dàng bọc thép, còn tôi mới làm chưa được một tuần đã tung chưởng bốp vào má một sếp tuồn tay vào váy và lập tức bị nghỉ việc. Tôi thay cái quần jeans cũ rồi nhìn mình trong gương. Đứa con gái trong đó nhìn lại tôi. Tóc ngang vai, không trang điểm, không “dễ mến”. Gai nhọn trong ánh nhìn. Môi khép hờ như nụ hồng nhưng mở ra có thể là 2 lưỡi dao bén. Tôi nhớ những từ người ta quẳng vào mình Con mọi cứng đầu. Thứ không mẹ không cha. Nghèo mà chảnh !.. Tôi đến địa chỉ trong báo. Đúng là giàu. Biệt thự mặt tiền. Xe hơi phủ vải ở ga-ra. Béc-giê xổ một tràng tiếng cẩu. Một người đàn bà khoảng dưới 40 nhìn tôi qua cửa sắt. Tôi chìa tờ báo có mẩu tìm người. Bà ta gật đầu rồi mở cửa. Cuộc phỏng vấn tiến hành chớp nhoáng - Hãy giới thiệu ngắn gọn về mình. - Tên Phượng, 21 tuổi, sinh viên. Nghe đến đó, bà ta chìa tay. Tôi hiểu ý rút ví lấy thẻ sinh viên. Bà ta nhìn ảnh rồi nhìn tôi săm soi từ đầu đến chân. - Cô biết đùa, hát karaoke, nói chuyện phiếm giải buồn không ? - Biết. - Kiên nhẫn chịu khó không ? - Tôi dễ thương tổn nhưng lì lợm, không dễ đầu hàng. - Mấy người trước dội ra đều bảo họ thừa dịu dàng kiên nhẫn. Tôi thấy cô thẳng thắn, cứng cáp. Nếu cô trụ được, cô có thể được 2 triệu 1 tháng để ăn học. Còn không, cho 3 buổi rồi đi. Mai cô bắt đầu. Từ 3 đến 5 giờ chiều. Để lại địa chỉ, thẻ sinh viên hoặc chứng minh thư. - Công việc cụ thể của tôi là gì ? - Trò chuyện, chịu đựng người bệnh, giảm áp lực buồn chán vì nằm một chỗ. Trên đường về, con Hai Triệu tung tăng chạy trước ngoắc ngoắc tôi. Vì nó, tôi sẵn sàng gồng mình chịu đựng 2 giờ cho 22 giờ còn lại, cho cuộc đời tôi tự chọn và đi bằng đôi chân mình. Đêm ấy con Hai Triệu và một người không hình dáng chập chờn quấy nhiễu giấc ngủ tôi. Nam hay nữ, già hay trẻ, người hay quỷ ? Buổi đầu... Bà quản gia dẫn tôi đến phòng bệnh nhân. Bà thì thào “Cậu chủ ngủ. Ngồi đợi”. Phòng rộng, thoáng nhưng bề bộn đồ đạc. Trên giường cũng bề bộn một hình hài. Tóc nhuộm hai màu chọi nhau. Chăn mỏng đắp hờ ngang bụng. Hai tay giăng ngang như bị đóng đinh. Lũ gối lớn nhỏ vây quanh cả chục cái. Tôi ngạc nhiên nhìn gương mặt trẻ măng đang ngủ mà mày nhíu lại như vật lộn với nan giải. - Khi cậu chủ dậy, cô giới thiệu cô là người thứ mười ba. Bà ta đi ra. Tôi cúi nhặt mấy tờ báo trên nền bỗng bị một cái gối ném trúng. Ngẩng lên, tôi chạm phải đôi mắt đầy hận thù trên gương mặt khoảng chừng đôi mươi. - Mày là con đĩ nào ? Tôi đã hình dung nhiều tình huống nhưng vẫn không phải tình huống này. Máu dồn lên mặt nhưng con Hai Triệu vuốt giận tôi. - Người thứ mười ba. - Tôi đáp. - Đứng dậy ! ánh mắt thằng nhãi lướt trên tôi rồi cắm vào đôi chân lành lặn của tôi với vẻ ganh tị - Mày có cặp giò mặc váy chắc đẹp. Tao... - Hắn bỏ dở câu nói rồi ném vào chân tôi cái gối. Tôi đón lấy. Cái nữa... Cái nữa... Tôi cáu - Tôi sẽ quẳng lại nếu cậu tiếp tục. Gối cứ tỉnh bơ nhắm tôi bay tới. Tôi gạt phăng con Hai Triệu qua bên, chụp lấy ném trở lại vào mặt thằng chủ. Thấy tôi ném hăng quá, thằng nhãi nhà giàu ngạc nhiên - Không sợ mất việc hả ? - Mày tưởng có tiền rồi làm cha thiên hạ chắc ? - Tôi chống nạnh trừng mắt. Thằng nhãi trố mắt nhìn tôi, rồi bật cười - Trông mày cũng hay hay. Đỡ buồn ! - Nó chống tay ngồi dậy nhưng không được. - Giỏi ném nữa đi ! - Đỡ tao ngồi dậy ! Tao thuê mày để làm việc đó. - Nhưng nếu tao không cần làm thuê nữa thì mày gọi đứa thứ mười bốn tới mà đỡ ! Tao đi đây ! - Tôi quay lưng. - Này... ! - Thằng chủ gọi giật. Tôi dừng. Đời tôi, tôi chưa đầu hàng cái gì trong vòng 15 phút. - Tôi cần tiền. Cậu cần người giúp đỡ. Có tôn trọng nhau thì hợp tác. Không thì thôi. Không có màn sỉ nhục. - Tôi đứng ở cửa ra điều kiện. - Tên gì ? - Phượng. - Sinh viên hả ? - ừ. - Lại đây đỡ tao ! Tôi đến gần... Con Hai Triệu động viên “Hắn không đứng dậy được. Đừng sợ !”. - Bế tao ra xe lăn ! - Thằng chủ chỉ tay về phía cửa sổ. Tôi định lật mền nhưng hắn thì thào “Để thế !”. Tôi luồn tay qua cổ hắn và cảm nhận cái mềm mỏng rủ xuống ở tay kia. Hắn quàng tay qua tôi, mắt lấp lánh ánh tinh quái. Tôi đe - Chớ dại ! Nếu không sẽ bị quẳng ngay xuống đất. Thằng nhóc lè lưỡi nép vào tôi. Lần đầu tiên tôi chạm vào một người đàn ông, dù hắn ta dường như chỉ còn một nửa ! Buổi thứ hai... Vừa dựng xe đạp tôi đã nghe tiếng gào, tiếng khóc, tiếng chửi rủa sa sả. Một quý bà sực nức son phấn và nước hoa từ phòng cậu chủ đi ra, vừa đi vừa lau nước mắt. Thấy tôi, bà dừng lại - Nghe nói cô đã qua buổi đầu tiên êm thấm với nó. Nếu cô làm dịu những cơn khủng hoảng thần kinh của con tôi, cô sẽ được trả gấp đôi. - Tôi có thể biết nguyên nhân và tình trạng của cậu ấy được không ? - Đua xe. Bạn gái chết, còn nó phải cắt cụt đôi chân vì xe tải nghiến nát. Đã 2 tháng nay tôi sống trong địa ngục, sợ những cơn cuồng nộ của nó đến không dám ở nhà... Tôi vào phòng, đến bên hình hài tàn phế đang nằm thở dốc và khóc. - Thứ mười ba đến rồi. - Tôi báo. - Trả chân cho tao ! - Gã gào lên. - Tôi không lấy chân của cậu. Có chân không đi, trời lấy lại. Gã há miệng như nghẹt thở rồi cầm “con dế” bên gối định ném tôi. Nghĩ sao, gã lại vứt nó qua cửa sổ. - Ông không còn chân, gọi thằng nào cũng không đến ! - Đúng là ném tiền qua cửa sổ ! - 7 triệu đấy, nhưng tiền để làm gì ? - Gã tì tay xuống gối lấy gì đó ném vào tôi. Gã luôn ném để khẳng định mình còn đôi tay quyền lực. Tôi nhặt lên, ngỡ ngàng nhìn tờ trăm đô xếp thành hình con hạc giấy. Cảm nhận được sức nặng của con hạc trong tay nhưng tôi vẫn ném trả. Gã lại ném qua... Cả bầy hạc giấy dưới chân tôi... - Nằm một chỗ, bà già vẫn phát lương. Còn mua sẵn chiếc xe hơi an ủi. Nhưng giờ tôi chỉ muốn chết. Hãy chỉ cho tôi cách chết ít đau đớn nhất. Tôi sẽ trả công cho cô. Tôi nhặt hết 5 con hạc giấy đặt xuống gối gã. - Cho đấy ! - Tôi làm công nhận lương, không nhận tiền cho không. - Nghèo mà chảnh nhỉ ! - Gã ngạc nhiên. - Hôm nay có mấy kiểu chết trên báo, cậu chọn kiểu nào ? Nhảy từ cà phê 33 tầng vào sinh nhật thứ 21. Hỗn chiến tại quán bia, bị đâm. Một nữ sinh 17 tuổi dắt xe đạp băng qua đường sắt bị tàu đụng. Một thanh niên đi xe máy sụp ổ gà bị xe rác cán chết. - Toàn ghê rợn ! - Gã nhăn mặt. - Làm gì có cái chết dịu dàng ! Để tới cái chết phải băng qua đau đớn. Và bỗng nhiên hình ảnh mẹ tôi nằm chết trên mặt đường hiện ra trong vũng nắng. - Cô sao thế ? Tôi lau vội giọt nước mắt ứa ra, lắc đầu... - Cậu chọn cái chết thì cũng chẳng cần người giúp việc nữa ! Tôi về đây. Mất thì giờ ! - Đừng để tôi một mình. - Gã kéo tay tôi - ở thêm với tôi, tôi trả cô một con hạc. Đây là tiền công chứ không phải tiền cho không. - Được. Dại gì không lấy. Giờ cậu muốn tôi làm gì ? - Cô sẽ làm gì nếu mai cô chết ? - Gã hỏi lại. - Tôi sẽ đấu tranh đến cùng để mai tôi vẫn sống. Một ngày là một cuộc chiến. - Giá nghèo như cô, tôi sẽ không bất hạnh thế này. Không có xe để đua, không có tiền để đốt đời mình... - Tại cậu chưa nếm mùi nghèo khổ đó thôi ! Tàn bạo, khốc liệt lắm, cuốn trôi bao ước mơ, đè bẹp bao số phận. Nhưng khi thừa mứa quá, nỗi đau trong tim còn dữ dội hơn cả cái đói. Một nhà văn đã nói thế. - Cô nói đúng. Tôi thừa tiền mà đầy trống vắng. Nhà tôi ai cũng sống giả dối, mọi thứ dùng tiền mua. Mà này, cô e bằng tuổi tôi sao “già” thế ? - Một chiếc xe chở ba người đã cướp mất tuổi thơ của tôi khi tôi lên 6, bởi vậy tôi ghét những đứa giết người rồi bị người giết như cậu... Tôi văng khỏi chiếc xe đạp khóc ré lên còn mẹ tôi nằm trên đường trưa im lặng... Tôi không có cha. Người đàn ông nào đó đã bỏ mẹ tôi khi tôi tượng hình. Ông cậu đem tôi về, lấy hết tiền người ta bồi thường, cho đi học một nửa buổi còn nửa buổi sai vặt, bưng bê trong quán cà phê của họ... 14 tuổi, tôi bị bà mợ ép bán trinh cho một doanh nhân. Tôi cầm chai rượu quật vào ông ta... - Rồi sao ? - Ông ta bưng đầu chạy. Còn tôi từ đó không nhà, lang thang vất vưởng rồi nương thân trong một mái ấm toàn những đứa trẻ không có tuổi thơ như mình. Tôi tự kiếm sống bằng mọi cách, giương vuốt bảo vệ mình và cố đổi thay số phận. - Đời cô buồn nhỉ ! - Bởi vậy mỗi ngày của tôi là một cuộc chiến, chiến đấu để tồn tại, để biến đời buồn thành vui... Buổi thứ ba... Ngày thứ ba gã không la hét cũng không ném thứ gì. Gã nói chuyện, cùng tôi thi hát karaoke. Bà quản gia dường như không tin tiếng hát vọng ra từ phòng gã, sững sờ đứng chôn chân ở cửa. Gã thắng tôi dễ dàng. - Tôi thích sự thách thức. Chính vì vậy mà tôi lao vào cuộc đua. - Gã thở dài. - Giờ cậu dám đua nữa không ? - Đua với ai khi thế này... ? - Với tôi. Chúng ta đua ngoi lên dưới ánh mặt trời. Thời hạn 5 năm. Gã không trả lời tôi, tư lự. Khi tôi bế gã từ xe lăn trở lại giường, gã nhìn vào mắt tôi - Cô có đôi mắt rất đẹp. Thăm thẳm nỗi buồn nhưng ánh nhìn quyết liệt. Đôi mắt ấy... - “Khóc người một con”... Bùi Giáng - Tôi nhìn gã đáp. Tôi qua trót lọt 3 buổi thử việc nhưng không “có duyên” với con Hai Triệu. Ngày hôm sau, một người đến tận chỗ tôi trọ gửi tiền công 3 buổi và một gói quà. Mở ra tôi thấy một bầy hạc châu đầu vào một đoá hồng. Đoá hồng là một cái thư, còn bầy hạc mười con xếp bằng tiền đôla thật. Tôi và con Thuý đọc “Cô không cần đến buổi thứ tư. Tôi vốn là một đứa sáng dạ, chỉ cần ba buổi là ngộ... Tôi nhận lời “đua” với cô, đua ngoi lên dưới ánh mặt trời để “còn hai con mắt khóc người một con”. Mười con hạc giấy này tôi tặng cô. Nó chỉ bằng chai rượu tôi uống trong những đêm đốt đời mình. Trước khi bay, người ta cũng cần đôi cánh. Đừng chảnh, hãy nhận nó vì tấm lòng thành của tôi. Hẹn gặp lại cuối đường đua”. - Thằng này chưa phải là đồ bỏ. Hoặc điên, hoặc rất lãng mạn. - Con Thuý bảo. - Không ai là đồ bỏ cả. Đi mua máy tính với tao. Tao khởi đầu cuộc đua đây ! Mau lên ! - Tôi giục con Thuý. Nguyễn Phúc Vĩnh Ba Đọc “27 truyện ngắn" của Quế Hương Với truyện ngắn "Một cuộc đua" Quế Hương đã đạt giải nhất trong cuộc thi viết truyện ngắn cho học sinh thanh niên và sinh viên năm 2004 do NXB Giáo Dục và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức. Đó là một đề tài khá quen thuộc trong khi phong trào An Toàn Giao Thông đang được quảng bá rầm rộ trên các phương tiện truyền thanh và báo đài. Dẫu thế, theo ý nghĩ của riêng cá nhân tôi, đây vẫn không phải là truyện ngắn đặc sắc nhất của chị. Quế Hương gia nhập làng văn khoảng chừng 15 năm nay. Trong khoảng thời gian ấy, Quế Hương đã để lại trong trí nhớ của người đọc một ấn tượng dữ dội bởi những mẫu chuyện rất xúc động, đôi khi rất lạ lùng và cũng rất đời thường với một giọng văn rất lạ. Người đọc thường đặt sách xuống một cách nhẹ nhàng, ngậm ngùi và tự hỏi bao giờ thì Quế Hương sẽ cho ra mắt câu chuyện tiếp theo của cô. Cô giáo Huế này quả đã lộ ra một nội lực tiềm tàng, hứa hẹn một tài năng càng lúc càng chín mùi và thơm ngát. “Hai bảy truyện ngắn” của Quế Hương được Nhà Xuất Bản Phụ Nữ trình làng vào khoảng giữa năm 2004. Tập truyện bao gồm một số truyện đã từng đoạt giải trong các cuộc thi truyện ngắn được tổ chức trong nước như “Họ và Lão” giải nhi 1999 tạp chí KTNN, “Bà Mụ của Búp Bê” giải truyện ngắn hay 1996 tạp chí VNQĐ, “Bức tranh thiếu nữ màu lục” giải nhì 1993 tạp chí SH, “Quán Búp Bê” giải Tác phẩm xanh 1995 báo TP, “Vua Lũ Đồ Chơi” giải nhất 96-97 UBBV & CSTEVN, “Tí bụi” giải nhất 2000-2001 UBBV & CSTEVN, Hội Nhà Văn VN, và Unicef... và một số truyện ngắn khác. Truyện của Quế Hương mang tính thời sự cao, một phần vì chị viết tham gia một số cuộc thi phát động với một số chủ đề đương đại. Chị viết về AIDS, về trẻ em đường phố, về thanh niên, học sinh sinh viên hôm nay, về nạn đua xe, bắt trộm chó, phá thai, cơn sốt đất hay về trận đại hồng thuỷ vừa qua,... Đó là những mảng đề tài gần gủi với cuộc sống hôm nay. Tuy vậy điều đáng chú ý là chị đã khéo léo hay tài tình nhìn chúng dưới một nhãn quan vừa triết lý vừa hiện thực và đã xây dựng thành công thành những tác phẩm nghệ thuật, tránh được cái nề hoan hô cổ võ, rao giảng đạo đức “theo đơn đặt hàng”. Đọc truyện chị dù không có năm tháng cụ thể thế nhưng ta vẫn dễ nhận ra chúng đang xảy ra trên đất nước ta trong thập kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ hai này. Truyện của Quế Hương nói về những con người mà định mệnh nghiệt ngã của kiếp phù sinh đã dành cho họ những đau đớn đến xé tâm can người đọc. Đó là Tí bụi, là lão Tầm Xuân, là “ông Kẹ”, thằng Chuột, con Lỡ què, anh Ruộng hâm, vv.., những con người khốn khổ, cô đơn trăm cách như lẩn quẩn đâu đây quanh ta. Nếu tôi được phép đặt cho tuyển tập một cái tên thì đó là Những Mảnh Đời Nhỏ Nhoi. Vâng, họ không là những anh hùng tên tuổi, những danh nhân tiếng tăm, những người đương thời thành đạt nhưng ta không có quyền quên rằng họ đang sống giữa đời này và đang tham gia vào hội sống phồn vinh này cùng với chúng ta. Không may thay, họ lại như những vết sẹo trên làn da ngọc ngà, như những miếng vá trên chiếc áo lụa gấm. Thế nhưng đọc cuộc đời của họ ta thấy có lỗi biết bao nhiêu khi thấy tình người ấm đậm và tràn ngập trong đời đầy khổ nạn và không may của họ còn chúng ta thì cứ vô cảm, tàn nhẫn dửng dưng đến sợ, cứ ung dung mà toạ hưởng những ân huệ nhân sinh mà chúng ta tình cờ hay mưu mẹo để có. “Tôi cầm dĩa sữa đến đó và thấy lũ chó châu đầu rúc vào một đống đen đen. Nhìn kỹ thì là Tí bụi. Nó trùm bao tời, khoanh người ủ ấm cho lũ chó con!” Tí bụi. Vâng, thằng Tí bụi thương lũ chó con vì “hắn” xem như đã chết. “Thấy hắn mô không? Hôm qua tui trốn hắn đi chơi... Chừ hắn trốn tui đi chơi ...” Tí Bụi. A, hoá ra hắn là con chó Win, mẹ lũ chó con hay người bạn thân tình của bà mẹ điên của Tí bụi. Tí bụi thương chó, chó thương Tí bụi. Còn bao nhiêu con người khác ở đâu? Trong một truyện khác, “Câu hát tìm nhau”, ta lại gặp một con chó khác, con Vàng. “Nó từng sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta cho tôi ăn những ngày tôi ốm...” Lại một con chó biết thương con người. Nói đến tình người như thế là cùng cực rồi. Phải chăng cõi nhân gian đã vắng lặng con người. Đọc truyện như thế thì sao không buồn cho được. Nhưng hãy nghe Quế Hương nói “Nếu bảo lúc nào đó chán trần trụi, thực dụng, lọc lõi, đểu cáng, hãy cầm lấy tập truyện này. Lênh đênh giữa đôi bờ hư thực, bạn sẽ gặp một nỗi buồn ấm áp.” Xin cám ơn chị Quế Hương về nỗi buồn đó vì trong chúng ta lắm người “chỉ biết có tiền còn mọi thứ khác đơn giản. Ma nó kị loại đó bố ạ” Căn nhà khó ở hay "Nè, 4 'bi' đó, đấng cứu khổ ạ! Mackeno.” Ga xép hay "Nhân đạo dữ! Tao mà bị AIDS tao cho vài chục đứa bị theo cho hả giận.” Thư gởi thời gian. Chua chát đến thế là hết sức rồi. Quả là đã đến lúc chúng ta đủ can đảm để nhìn vào những sự thật đau lòng như thế và mạnh dạn gạt đi những ảo tưởng màu hồng để tự đánh gạt mình về bản chất của con người. Tôi không nghĩ rằng chị Quế Hương là bi quan. Nhà Phật không bảo rằng mọi người đều chứa sẵn tam độc tham sân si trong mình sao ? Sống như các nhân vật của chị mới là rất “người” và đồng thời cũng rất “không người”. Tôi hoàn toàn đồng ý với chị khi chị dùng cụm từ “giữa đôi bờ hư thực”. Tôi cho rằng cái chất trữ tình cuốn hút người đọc trong truyện của chị là ở đây. Tuyển tập 27 truyện ngắn của Quế Hương hay Những Mảnh Đời Nhỏ Nhoi NMĐNN như theo cách gọi của tôi là bức tranh vẽ nên đời sống xanh xao của những con người mà xã hội này muốn ném nó ra khỏi dòng sinh hoạt. Họ sống đó thử hỏi có ích gì nếu không nói là một gánh nặng cho bao kẻ cao quí khác. Họ là người cha già yếu bị khoá trái trong tường rào sau khi đã bị tống ra khỏi căn nhà của chính ông khi “con ông đã trở thành chủ nhân trong ngôi nhà của cha mình. Từ lầu đến trệt, từ phòng trước đến phòng sau, từ phòng rộng đến phòng hẹp và bây giờ kề bên bếp... nằm đó mát như hứng gió biển... có thể ngắm cả mảng trời sao lấp lánh”, là đứa con tên Lỡ vì "... cha mẹ nó chẳng chờ đợi nó ở ngôi nhà này ...Mẹ nó đã quay lưng lại khi cô đỡ chìa ra một cô bé gái nhăn nheo... lỡ sinh ... lỡ quên” Bà Mụ Của Búp Bê, là bà mẹ được tống vào nhà dưỡng lão khi con trai bà “sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái” đã “thấy bà già cơ nhỡ, ngủ nhờ trước hiên nên thương xót dẫn giúp vào đây” Câu hát tìm nhau hoặc là có khi là con vật như con nhồng Bù Đốp mà một khi không còn được việc nữa thì “cắt tiết một con gà mái tơ trước chuồng nó. Giống này kỵ máu súc vật. Thấy là lăn đùng chết ngay” Con nhồng Bù Đốp. Thật đáng ngán ngẫm thay cho sự phản phúc của con người mà ở loài vật như con chó Win, con chó Vàng, con chó Chả Chìa cũng không hề có. Và như một hệ quả tất nhiên, họ tràn ngập cô đơn. Họ chìm lĩm trong những “đoạn trường vô thanh” Phạm Thiên Thư - những nỗi đau xé ruột không nói nên lời. Thế giới của họ từ chối tiếng nói vì tiếng nói đã quen với những hoa mỹ giả dối để lừa gạt nhau hay chính tiếng nói đã bất lực không nói làm được vai trò truyền tải sự cảm thông. Cô đơn và không được cảm thông là hai thông điệp mà Quế Hưong muốn nói với chúng ta. Họ chỉ còn cách chơi búp bê, trò chuyện rồi mơ mộng với chúng như con Lỡ Bà Mụ Của Búp Bê, ông Kẹ Vua Lũ Đồ Chơi, con bé câm Quán Búp Bê hay là chơi với chó để được chó nuôi như Tí bụi, lão Tầm Xuân, Con Ngổ, vv.. . Có đến năm truyện ngắn nói đến búp bê Quán Búp Bê, Vua Lũ Đồ CHơi, Bà Mụ Của Búp Bê, Nỗi Buồn Rực rỡ, Đám Cưới Cỏ và sáu truyện ngắn nói đến chó Tí bụi, Tiếng Hát Tìm Nhau, Ngày Nắng Đầu Tiên, Ả Ìa Âu, Phố Hoài và Tịnh Tâm Viên. Thế giới truyện ngắn của Quế Hương đã nâng tầm đồ vật, con vật lên thay cho con người. Hay nói đúng ra, những đồ vật hay con vật đó mang nhiều chất người hơn các sinh vật hai chân đi thẳng đứng homo erectus. Chúng là “đôi chân biết khóc” Họ và Lão, “con búp bê trụi tóc gãy tay ... sẽ đẻ con... đẻ một con búp bê tóc vàng như công chúa” Bà Mụ của Búp Bê, là thằng Lá Dừa “... một giáo viên dạy giỏi. Nó biến kiến thức thành thơ con cóc tuốt nên rất dễ thuộc...” Vua Lũ Đồ Chơi, là công chúa Mơ “... đứng bên giường. Nàng mang đôi cánh tí tẹo...” Quán Búp Bê hay là con Chả Chìa “...lại thành vú em con Ngổ. Con bé ra đường, nó sủa gọi và kéo áo vào. Con bé té khóc, nó liếm chỗ đau vỗ về...” Ả Ìa Âu. Cây cỏ cũng say sưa làm đám cưới như con người Quán Búp Bê, và Bức tranh thiếu nữ màu lục. Thế còn nhân sinh, và con người thì sao? “Ga xép” lại là một truyện ngắn khác khá thành công của chị. Đó là một bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương. Trong một chuyến tàu cuối năm về quê, ta gặp đủ hạng người, từ mấy phá gia chi tử đến ông già đi thăm mộ con liệt sĩ, hay chàng sinh viên nghèo về thăm nhà và hai tâm hồn lạc loài khác đi về nhưng chẳng biết về đâu. Tất cả hầu như vất vưởng trên cõi trần gian “khối ma ban ngày ma men, ma tuý, ma cô…” này. Ma và người sống chung nhau trong cõi trần nhỏ hẹp này. Người thì mệt nhoài với cuộc sống vô vàn bế tắc nhưng thẳm sâu trong tâm hồn họ, tình người vẫn âm ỉ nhen nhúm lên một ngọn lửa leo lét. Bên cạnh họ vô số bóng ma hay là những dĩ vãng nào đó đeo bám và ma “chỉ khác người là không già. Mấy chục năm vẫn thế.” Họ xanh xao, xiêu vẹo, hao gấy, lạc loài quằn xuống dưới sức nặng của một kiếp phù sinh không biết “làm gì cho trôi ngày rộng tháng dài.” Cõi đời vốn thế vì “Đời như vô tận, một mình tôi về...” như chị đã trích nhạc của anh Trịnh công Sơn trong đoạn kết của truyện. Tôi vẫn thích Quế Hương ở điểm này Chị không là một nhà chính trị, chị là nhà văn. Bổn phận của chị muôn đời vẫn là phản ánh để đánh thức cái lương tri nếu còn có trong mỗi một chúng ta. Nếu nói tập truyện của Quế Hương là chuyện của người chết, người bệnh và người điên thì cũng đúng thôi. Trong "Tịnh Tâm viên" - truyện ngắn cuối tập - hai nhân vật chính, có một người điên, đều chết. Trong truyện khởi đầu tập "Họ và Lão" thằng Chuột nhân vật chính cũng chết. Rải rác trong tuyển tập là cái chết của vợ lão Tầm Xuân, của ông hoạ sĩ điên... Người sống rồi quay quắt với những dĩ vãng kỉ niệm ngọt ngào rồi điên rồi chết. Nhân vật của chị cứ theo một mô típ như thế để tạo nên một thế giới thật phong phú, sống động và liền mạch khiến người đọc chìm lĩm vào dòng cảm xúc thật miên trường như chính sức sống của các nhân vật của chị. Dĩ vãng là phần chìm của tảng băng đời sống hiện thực của họ khiến họ sống dài lâu hơn trong tâm trí chúng ta, làm họ xúc động chúng ta nhiều hơn. Đại dương dĩ vãng bủa vây tâm hồn họ. Họ sống lẫn lộn giữa hôm nay và ngày xưa, hư hư thực thực như dòng đời đa diện và khó hiểu. Đó cũng là một đặc điểm của truyện của Quế Hương. Truyện của Quế Hương giàu cảm xúc thẩm mỹ và lao động nghệ thuật. Tôi không nghĩ rằng chị đã "...mông má, hư cấu, thêm thắt...những chuyện ngoài đường, chuyện đẩu đầu đâu" mà chị đã "...hóng chuyện ngã ba cách tường..." rồi "không ngờ gởi đâu được đăng đó, lại còn có giải” Ngã Ba Trần Ai. Nói thế thì quá đơn giản quá trình sáng tạo nghệ thuật mà đó lại là một điểm sáng trong các truyện ngắn nói trên của chị. "Chữ sẵn trong đầu chị chỉ cần gia giảm, xào xáo" nhưng không giống như bà vợ của nhà văn xóm Quậy nấu ăn. Đọc truyện Quế Hương, ta phải nghiêng mình khâm phục vì chị tài tình bắt được những góc nhìn thật độc đáo và diễn đạt cũng một cách độc đáo để cho ta thấy được những cảnh tượng mà ngỡ như thấy được trong mơ - trong những ác mộng hay trong những hảo mộng. Ước vọng về một tình yêu vĩnh cửu xuyên suốt các câu chuyện của chị. Nhiều nhân vật của chị chết đi cho tình yêu của họ lên ngôi hay phải chăng tình yêu đó khó mà có được ở hội sống này. Gần như mọi chuyện đều là chuyện tình, có khi là tình yêu làng quê hoặc tình người ấm lạnh. Tất cả những mối tình được chị miêu tả đều đau thương bất hạnh. Sức nặng của những hoài niệm dĩ vãng làm cho nhân vật của chị có tính người hơn và chung thuỷ hơn. Họ trung thành với những suy tư cảm nghĩ của họ cái thuở mà lòng họ chưa hoen ố bụi đời. Họ đã sống dài lâu hơn ngay cả khi đã chết. Như chị nói, nhân vật của chị hay chị là “một người mơ mộng lạc loài trong thế giới đang khô kiệt dần lãng mạn - mộng tưởng về tình người, tình yêu, cái chết, nỗi cô đơn..” Còn nhiều cái đáng nói trong những truyện ngắn của Quế Hương. Đọc truyện của Quế Hương, ta nhớ tới Thạch Lam, Nguyên Hồng, Kim Lân, Vũ Trọng Phụng... Đọc truyện chị ta sẽ làm giàu tâm hồn mình vì học hỏi được nhiều điều cao quí biết trắc ẩn, biết quan tâm đến kẻ khác, biết buồn đau.. Vâng, cuộc sống hôm nay có nhiều điều đáng ca tụng nhưng cũng không thiếu chuyện đau lòng. Không ca tụng thì chưa chắc đã làm hại ai nhưng thiếu phẫn nộ xót xa trước những chuyện đau lòng thì quả là đáng trách. Hãy theo chị mà chiêm nghiệm những bi kịch của kiếp người, để làm giàu mơ mộng một cõi người tốt đẹp hơn, cho “gió phù vân của cõi người đỡ buốt thấu xương.” Tháng 08/2005 trang Vĩnh Ba CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG NGUYỄN THỊ NGỌC GIANG Trường THPT Đào Duy Từ, Quảng Bình Tóm tắt Bài viết đi sâu tìm hiểu chất trữ tình - một trong những yếu tố cơ bản làm nên “dư vị” khó quên, sự đằm thắm mà khắc khoải đặc biệt của truyện ngắn Quế Hương. Truyện ngắn của nhà văn này khơi sâu vào những khoảng lặng nội tâm con người; miêu tả những nhân vật luôn mang trong tim mình tình yêu nặng trĩu; dựng lên một không gian nghệ thuật mộng mơ, bảng lảng và u trầm rất Huế, với thời gian hoài niệm như chuyến đò tìm về miền quá khứ in dấu bao kí ức đẹp đẽ tinh khôi. Quế Hương có một giọng văn nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, lối diễn đạt mượt mà, sâu lắng, câu văn giàu nhịp điệu,… Giản dị mà sắc sảo, nồng ấm mà dịu mát, truyện ngắn của Quế Hương là thế giới của sự hài hòa, hài hòa ngay cả trong đổ vỡ. Quế Hương đã góp một tiếng nói nhỏ nhẹ, thâm trầm vào bản hòa ca của nhiều phong cách truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Từ khóa chất trữ tình, truyện ngắn, Quế Hương 1. MỞ ĐẦU Giao thoa thể loại là một thực tế tồn tại từ xưa đến nay trong đời sống văn chương. Đó là hiện tượng các thể loại “gần” nhau, “nhìn sang” nhau, “hợp nhất vào nhau”…, là sự hút hương nhụy một cách độc đáo để tạo ra những hình thức thể loại mới, mà truyện ngắn trữ tình chính là một ví dụ điển hình. Có thể nói, truyện ngắn trữ tình là kết tinh của sự giao thoa giữa hai phương thức sáng tác thơ và văn xuôi. Nhà nghiên cứu người Nga Kuranop cho rằng “Trong nền văn học hôm nay, chúng ta chứng kiến sự xích lại gần nhau giữa thơ và văn xuôi. Sự xích lại này làm cho văn xuôi chúng ta thêm nồng ấm, run rẩy, nhiều chất hội họa, cô đọng hơn trong những ẩn dụ thấm vào từng câu, từng đoạn.” [2, tr. 23]. Với người Việt Nam, trữ tình nói chung và thi ca nói riêng luôn là một mạch nguồn thẳm sâu cắm rễ trong tâm thức Việt. Đó chính là cội nguồn của chất trữ tình đằm thắm trong một bộ phận truyện ngắn của các nhà văn nữ giai đoạn sau 1975, tạo thành một dòng mạch sâu lắng và đầy xúc cảm. Phải nói rằng, sự góp mặt của hàng loạt cây bút nữ trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam sau 1975 đã đem đến một không khí mới mẻ cho văn chương nước nhà. Những tên tuổi Dạ Ngân, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Nguyên Hương, Nguyễn Ngọc Tư… đã tạo ra những ấn tượng sâu sắc với bạn đọc. Truyện ngắn của các nhà văn ấy là những mảng màu đa sắc hiện thực mặn chát, kì ảo huyền hoặc, hài hước biếm họa… nhưng tất cả vẫn gặp nhau ở mạch ngầm trữ tình da diết như từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ giới thể hiện ra trên nhiều phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Và ngồn ngộn giữa bao tác phẩm của những nhà văn nữ ấy, truyện ngắn Quế Hương hiện lên như một “bức tranh thiếu nữ áo lục” đằm thắm, dịu dàng mà khắc khoải như một vệt tím tâm hồn tha thiết níu giữ trái tim người đọc. Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế ISSN 1859-1612, Số 0137/2016 tr. 63-69 64 NGUYỄN THỊ NGỌC GIANG 2. CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG Quế Hương là bút danh của Nguyễn Thị Thương. Từ cô nữ sinh Đồng Khánh đến cô giáo dạy Việt văn trung học Thành Nội - Huế và nay là một nhà văn với hơn mười mấy năm cầm bút, văn chương như một nghiệp dĩ ngấm vào tâm hồn chị. Để rồi, lúc vừa buông viên phấn, ngọn bút của nhà văn Quế Hương lại nở hoa thành những trang văn đằm thắm dịu dàng mà khắc khoải, da diết… Văn của chị lôi cuốn người đọc bởi “nỗi buồn ấm áp” được chưng cất nên từ bao điều bé mọn của cuộc sống thường ngày. Đó là thứ văn như chắt ra từ sâu thẳm thương yêu. Có thể nói rằng, chất trữ tình trong truyện ngắn Quế Hương không chỉ là một “dư vị” khó quên mà còn là dấu hiệu của một phong cách nghệ thuật độc đáo. Truyện ngắn của Quế Hương khá phong phú, đa dạng. Có những truyện như một lát cắt của hiện thực đời sống nghiệt ngã với những vấn đề thời sự nhức nhối căn bệnh thế kỉ AIDS để lại nỗi đau trên thân phận đứa bé mà cái tên đã là một nỗi xót xa Tội Tiên ngồi khóc; những mảnh đời lầm lụi của trẻ em đường phố Tí bụi; áp lực học tập và sự thiếu đồng cảm với trẻ thơ Trốn tìm; là lối sống của thanh niên trong xã hội đương thời Một cuộc đua… Truyện của Quế Hương khi thì được khoác lên sắc màu cổ tích với những bài học nhân sinh sâu sắc Câu hát gọi tìm, Cội mai lưu lạc; khi thì lấp lánh chất huyền hoặc, bảng lảng không khí cổ xưa Bức tranh thiếu nữ áo lục, Tịnh tâm viên… Nhưng dù viết về đề tài gì, mạch trữ tình vẫn bàng bạc thấm sâu trong từng con chữ, trở thành một thứ sinh quyển của văn bản, làm cho mỗi truyện ngắn của Quế Hương như “một nốt trầm xao xuyến”, rất giàu chất thơ. Truyện ngắn Quế Hương không có những xung đột gai góc, kịch tính mà thường là những khoảng lặng của nội tâm. Chị có tài làm cho da diết những điều tưởng chừng như giản đơn, bé nhỏ chỉ chực tuột đi trong nhịp sống hối hả thường ngày. Đó là người phụ nữ mảnh mai của những câu chuyện buồn tủi, xót xa mà cũng đầy mơ mộng; người phụ nữ của những câu chuyện về thân phận bọt bèo, tuổi thơ bị ruồng bỏ, tình yêu như con nước dịu dàng trôi chảy... Đó là tình thương của thằng Tí bụi với bà mẹ điên và bầy chó làm cho tâm hồn nó lóng lánh những sắc màu đáng quý sau lớp bụi đời cáu bẩn Tí bụi. Là mảnh hồn trong trẻo như cánh cò trắng muốt của thằng Cọt mất mẹ, mất em trong mùa nước lũ, dồn tất cả tình thương cho cò gà bé bỏng Cò gà. Cảm tưởng như sự “lạ hóa” không phải là yêu cầu tiên quyết trong văn Quế Hương. Đành rằng văn chương cần cái mới, nhưng quan trọng hơn cả là sự cảm thông đồng điệu. Văn của chị thường trở đi trở lại và lay động hồn người bởi những điều bé mọn. Ả ìa âu? là một tiếng nấc nghẹn của đứa trẻ khi mất đi con chó - người bạn đồng hành của tuổi thơ. Đôi chân biết khóc là sự rưng rưng trước cảnh ngộ của mẹ, của mình - những thân phận đàn bà với những nhọc nhằn lam lũ. Ga xép là một khoảnh khắc bất chợt giữa hai tâm hồn Con tàu đã lao đi vào cái vòng xoáy bất tận của cuộc đời nhốn nháo, cái bóng liêu xiêu mảnh mai của chị - người đàn bà xa lạ trong một gặp gỡ tình cờ trên một ga xép quạnh hiu - đã nhạt nhòa, nhưng trong anh vẫn níu giữ trọn vẹn cảm giác về hạnh phúc vĩnh cửu, lặng lẽ… Chất thơ trong nhiều truyện ngắn của Quế Hương toát lên từ sự ứng xử của các nhân vật. Họ đau đáu một tình yêu trong tim và lời yêu chỉ vỡ òa thành tiếng “Mưa ơi” khắc CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG 65 khoải khi người ta khóc thương cho một đời nằm xuống Trần gian có mưa hay chắt đúc thành giọt yêu thương như chiếc lá hình giọt lệ chị Thời cặm cụi cắt tỉa một đời. Là biển người mênh mông, thời gian như lớp bụi mờ, lão Tầm Xuân vẫn đau đáu đi tìm lại nửa câu quan họ cắt đôi chia lìa ngày trước Câu hát tìm nhau. Nhân vật của Quế Hương luôn gánh trong tim mình một tình yêu nặng trĩu, đẹp mà buồn. Không tràn dục tính, mãnh liệt và cuồng bạo như Đỗ Hoàng Diệu hay Nguyễn Ngọc Tư, tình yêu trong văn chị nhẹ nhàng mà da diết như chính những nhân vật của nó. Không chỉ là những người phụ nữ yêu lặng thầm Chiếc lá hình giọt lệ, Phố Hoài, “tình yêu non dại của chị âm ỉ như lò than nướng bánh tráng” [3, tr. 353], nhân vật của Quế Hương còn là những người đàn ông nặng lòng với những khoảnh khắc yêu vụt qua cuộc đời mình. “Chú gặp cô ấy chỉ một tuần cháu ạ… Một tuần so với đời người quá ngắn thế mà cả cuộc đời chú không thoát khỏi cái tuần ấy được. Dường như nó vắt kiệt máu trong tim chú khiến chú không còn yêu ai được nữa” [3, tr. 116]. Truyện của chị thường là những mối tình đơn phương không dám ngỏ lời, không chỉ của riêng tuổi trẻ, mà của trọn kiếp người. Đó là những tơ vương của tuổi hoa niên, là những sắt son chung thủy ngay cả cái chết cũng không thể chia lìa. Phố Hoài, Nhìn từ vĩnh cửu, Tịnh Tâm viên, Câu hát tìm nhau, Tre nở hoa… là những bản tình ca dịu dàng như thế. Sự thấu hiểu và cảm thông với từng số phận con người đã khiến cho Quế Hương đi sâu được vào đời sống nội tâm, giao cảm được với con người qua những niềm vui, nỗi buồn, sự mất mát, khổ đau. Cũng dễ hiểu vì sao trong văn của mình, Quế Hương dành khá nhiều trang viết cho người phụ nữ. Họ là người đàn bà lầm lụi, hi sinh một đời vì chồng vì con và nín lặng một tình yêu sau tấm ngực gầy nhưng ẩn chứa một tâm hồn mãnh liệt. “Khế đang mùa hoa. Rụng đầy. Mẹ thích thế nên chỉ quét buổi chiều để có một ngày nhìn sân tim tím. Một người vậy phải lãng nhưng tôi chỉ biết mẹ như một người đàn bà tất bật, tẻ nhạt, còng lưng dưới gánh nặng của cam chịu và bổn phận” [3, tr. 109]. Họ đảm đang, dịu hiền nhưng cũng đầy bất hạnh. Đó là cô Thơm, chị Thời, cô Tú... những phận đàn bà mỏng manh giữa bất trắc cuộc đời. Quế Hương cắt nghĩa một cách xa xót bằng cái nhìn nhân ái của một người cùng giới. “Thượng đế cho người đàn bà đến ba đôi mắt! Đôi đằng trước, đôi đằng sau, đôi trong tâm hồn để nhìn, cảm nhận và thấu suốt” [3, tr. 112]. Chính vì thế mà họ luôn có đôi chân biết khóc, một đời phải “bận tay, bận lòng” và một tâm hồn sâu thẳm với khoảng trời riêng để khi một mình lại “ngồi bó gối bên bếp lửa đun nỗi cô đơn cháy đỏ trong chiều” [3, tr. 165]. Với một cái nhìn vĩnh cửu, Quế Hương muốn dùng cây bút của mình xoa dịu đi những vết thương lòng, đem thương yêu ủ ấp những nhức nhối, khổ đau. Chính vì vậy, trong tác phẩm của Quế Hương, những thân phận ấy dù có cô đơn, bé nhỏ trước cõi người mênh mông thì họ vẫn, trong một góc khuất nào đó, không chịu cam lòng với số phận. “Cô tôi, người đàn bà nhút nhát, đoan trang, chưa hề đặt chân ra khỏi khuôn phép của công dung ngôn hạnh đã dám vượt rào bay xa sống phần đời còn lại của đời mình” [3, tr. 171]. Con Lỡ trong Bà mụ búp bê vẫn tin “con nó làm đẹp cho nó. Con người được cứu vãn nhờ tái sinh” [3, tr. 205]. Hay "ngày mai tôi yên tâm trở về. Không sợ chị đơn độc. Không sợ chị yếu đuối. Có lẽ tôi lại mất việc. Nhưng tôi sẵn sàng bắt đầu lại từ 66 NGUYỄN THỊ NGỌC GIANG đầu. Tôi đã học nhiều điều trong hơn tháng kề cận họ. Đời rộng mênh mông bởi tôi đã nhìn ngắm nó dưới góc độ vĩnh cửu [3, tr. 162]. Chính vì thế mà truyện ngắn của Quế Hương thường có một kết thúc giàu chất gợi, hướng người đọc về một niềm tin ở phía trước. “Chim sơn ca bằng thủy tinh cất tiếng hót lảnh lót chạm thấu trời xanh, chạm tới giấc mơ của những chú bé” [3, tr. 48]; “Từ cái gốc nhẵn thín câm lặng kia lại trồi lên một mầm sống mới, một nhánh mai non tơ mảnh khảnh, rạo rực vươn lên” [3, tr. 327]; “Gai của hoa là hương thơm và vẻ đẹp. Chính cái đó đã quy phục con cừu không rọ mõm và gieo lên tâm hồn hoang mạc của nó một mầm sống mới” [3, tr. 29]. Không tìm thấy trong văn Quế Hương vẻ gay gắt, quyết liệt. “Đó là một thế giới hài hòa, hài hòa ngay cả từ sự đổ vỡ” [1, tr. 6]. Kể cả chuyện tưởng chừng như gay gắt, quyết liệt nhất như Một cuộc đua thì cái kết của nó cũng là một khoảng dừng đầy ước khát và mơ mộng. Khi nhân vật chính từ trong bi thảm, thất vọng đã nhận lời “đua ngoi lên dưới ánh mặt trời” và đã tìm cho mình đôi cánh để tiếp tục bay… Chất trữ tình trong truyện ngắn Quế Hương còn thấm đượm ở không gian nghệ thuật mộng mơ, giàu chất Huế. Người đọc có thể bắt gặp không gian đặc trưng của xứ Huế ngay từ con đường Phượng bay trong Thành Nội, đàn Nam Giao, thôn Kim Long… - nơi náu mình của “ngôi nhà vườn cổ kính mái trĩu thời gian, lấp ló trong màu cây ngăn ngắt” Quán búp bê. Vì Huế là “một thành phố vườn” Hoàng Phủ Ngọc Tường nên trong truyện của chị, người đọc đôi khi ngẩn ngơ dừng chân trước một Tịnh Tâm viên, một Mai gia trang, một Mộng viên. “Qua khỏi cổng là bức bình phong bằng chè tàu, hòn non bộ thu gọn cảnh sơn thủy hữu tình, núi non hang động”, “những con đường nhỏ sỏi trắng trải đầy... Lau bạc đầu ngả ngớn bên lũ cỏ non tơ” Tịnh Tâm viên..., bảng lảng mùi hương ngọc lan ngan ngát hay cây cỏ hồn nhiên hiến dâng trọn vẹn cho đất trời sắc tím mê hồn, cái sắc màu riêng rất Huế… Đó còn là không gian giăng mắc một màu mưa đặc trưng xứ Huế “Những cơn mưa rả rích, trầm buồn, dai dẳng, nhức nhối xâu xé tâm can lữ khách... Bầu trời như sáng lên vì trút được gánh nặng. Hiên mưa thánh thót giọt vắn giọt dài” [3, tr. 262]. Trong không gian ấy, nỗi buồn, niềm đau của nhân vật được vỡ òa Trần gian có mưa; được thanh tẩy, gột rửa “với người điên, mưa trở thành một tấu khúc kì diệu của đất trời. Từng giọt, từng giọt… gõ xuống cõi hỗn mang của người đàn bà, thức dậy một thời xa vắng, rửa sạch bụi bặm, thương đau” [3, tr. 262]; được bừng ngộ, thăng hoa cảm xúc và sáng tạo “Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt ông đã hoài công tái hiện trong tranh… Ông kéo giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục. Ông làm việc mê man” [3, tr. 294]. “Mưa níu người ta về một niềm nhớ, một nỗi hoài vọng ướt sũng mưa hay lệ khó mà phân biệt được. Có tình yêu ngắn như cơn mưa giông nhưng cũng có những tình yêu dài hơn những cơn mưa dầm trong đời người xâu lại. Mẹ có một tình yêu như thế, có lẽ nặng sâu và oan nghiệt” [3, tr. 118]. Chất trữ tình tha thiết in đậm trong nhiều truyện ngắn của chị thể hiện qua việc khắc họa những cơn mưa ấy. Nó cũng nhẹ nhàng, da diết như chính tâm hồn nhân vật và cả tâm hồn nhà văn. CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG 67 Đó còn là không gian của đền đài lăng tẩm “Hoàng cung u trầm diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong màn sương” Bức tranh thiếu nữ áo lục. Nhưng hình như Quế Hương không cố công đi tìm những vẻ đẹp uy nghi, đường bệ, lộng lẫy của thành quách, Đại Nội, núi Ngự, sông Hương… mà tâm hồn tinh tế ấy rung động trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố này “Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của đại lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã” [3, tr. 29]. Chị cứ thế, lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Chị lang thang khắp chốn và Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh trên trang văn của chị. Điều đó cũng đã tạo nên một giọng điệu buồn thương da diết mang hơi hướng của điệu Nam ai, Nam bình, như tiếng dạ thưa của người con gái Huế, một nét riêng rất Quế Hương. Cùng với không gian nghệ thuật đầy chất thơ, truyện ngắn Quế Hương còn xây dựng một thời gian nghệ thuật với những miền hoài niệm, những tình huống trở về quá khứ in dấu bao kí ức đẹp đẽ, tinh khôi. Điều này bộc lộ sâu sắc tâm trạng, đặc biệt là tâm lí của nhân vật trong tác phẩm. Vì một cội mai già lưu lạc đau đáu trong tim người mẹ mà cô con gái phải làm một chuyến hành trình trở về rồi lặng lẽ gây dựng một mảnh vườn như trong kí ức người thiên cổ Cội mai lưu lạc. Là thằng Dậu hôm nay tóc bạc, da mồi đi giữa lòng Phố Hoài mà như thấy cả tuổi mười sáu “roi rói tươi nguyên như mới lấy ra từ hoài niệm” với chị Tường Rêu xưa cũ. Thời gian hoài niệm ấy cho nhân vật của Quế Hương được sống lại với những tình yêu đã lỡ. Trong “Nước mắt khô”, “Tre nở hoa”, “Ẩn lan”, “Câu hát tìm nhau”…, người đọc như chạm đến những day dứt, xót xa hoài nhớ về một bóng hình, một tình yêu, với những xúc cảm một thời nay vẫn sóng sánh trong tim. Sức nặng của những hoài niệm dĩ vãng làm cho nhân vật của chị có tính người hơn, chung thủy hơn. Thời gian trần thuật bị đảo lộn. Đồng hiện thời gian được tổ chức một cách có nghệ thuật hiện tại - quá khứ, thực - hư đan lồng. Dòng nội tâm của nhân vật miên man cất lên giữa đôi bờ khắc khoải ấy. “Lời vô thức – mạch trữ tình trội lên ở bình diện thứ nhất, mạch tự sự chìm khuất sau những ngổn ngang hoài niệm” [4, tr. 2]. Chính vì thế, người đọc có thế bắt gặp những khoảnh khắc phân tâm như “Thỉnh thoảng, mái hiên đầy bóng tối và nước mắt ấy lại hiện về trong giấc mơ thằng Dậu. Cả cảm giác ngất ngây bàng hoàng chưa hề gặp trong đời ấy. Thằng ranh, mi làm chi rứa?”. “Tuổi mười sáu của hắn chưa kịp xanh đã chớm vàng trong nỗi quay quắt được thành người lớn. Lớn mau, lớn mau, hỡi thằng ranh!” [3, tr. 354]. Trong thời gian nghệ thuật ấy, tâm thức con người được trở về, ăn năn, hoài niệm, khổ đau, xa xót. Chuyên chở những số phận con người trong không gian, thời gian nghệ thuật ấy là một giọng văn nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, lối diễn đạt mượt mà sâu lắng. Người đọc yêu một con Phố Hoài với “Trăng gầy như nét vẽ. Mái cúi thấp để trời thêm cao. Ai đó ném một tiếng ho khan vào tĩnh lặng”. Câu văn giàu nhịp điệu, giàu tính từ miêu tả góp phần tạo nên màu sắc trữ tình cho truyện. “Lạnh lẽo và lộng lẫy, trăng lênh láng dát bạc đường mòn, rừng, cây, thảm lá. Ánh trăng làm những vòm lá phong đỏ như lửa cháy dịu lại. Chúng đang đợi gió để cùng lìa cành. Những chiếc mỏng mảnh trên mặt đất lại phập

truyện ngắn quế hương